Giỏ hàng

Bàn về tác dụng của Beauty SÂM trên sức khoẻ sinh lý nữ

Tác dụng tăng cường nội tiết tố nữ của BEAUTY SÂM. Đây là tác dụng quan trọng nhất của một sản phẩm “hormone” được bào chế từ Báu vật vùng cát biển và các loài dược liệu thiên nhiên như: Bồ công anh, Lô hội, Trinh nữ hoàng cung, Mầm đậu nành để tạo nên một sản phẩm dành cho liệu pháp hormone thay thế.. Tuy nhiên qua bài viết này cho thấy Beautysam còn có cơ chế đặc biệt bởi hàm lượng hoạt chất cực quý hiếm, có hàm lượng hàng đầu thế giới trong Sa sâm Việt, loài Sâm trồng trên cát biển duy nhất trên thế giới hiện nay, được các nhà khoa học gọi là Báu vật vùng cát biển bởi chưa từng có loài Sâm hay dược liệu nào trên thế giới có đến nhiều hoạt chất lớn, nền tảng và hàng đầu như thế: Polyphenol (290,90 mg GAEs /g cao chiết), flavonoid (85,47 mg QEs / g cao chiết). Điều này lý giải thêm vì sao Beautysam là một giải pháp hiệu quả đặc biệt và duy nhất trên thị trường vừa mang lại sức khỏe tổng thể vừa tăng cường nội tiết tố, giúp Phụ nữ luôn căng tràn nhựa sống, đồng thời lại là một giải pháp hiệu quả giúp trong hỗ trợ điều trị các triệu chứng viêm nhiểm và các bệnh tự miễn khác...

Phân tích này tập trung phân tích sâu tác dụng tăng cường nội tiết tố nữ của BEAUTY SÂM. Đây là tác dụng quan trọng nhất của một sản phẩm “hormone” được bào chế từ các loài dược liệu thiên nhiên như: Bồ công anh, Lô hội, Trinh nữ hoàng cung, Mầm đậu nành để tạo nên một sản phẩm thiên nhiên sáng giá dành cho liệu pháp hormone thay thế.. Tuy nhiên qua bài viết này cho thấy Beautysam còn có cơ chế đặc biệt bởi hàm lượng hoạt chất cực quý hiếm, có hàm lượng hàng đầu thế giới trong Sa sâm Việt, loài Sâm trồng trên cát biển duy nhất trên thế giới hiện nay, được các nhà khoa học gọi là Báu vật vùng cát biển bởi chưa từng có loài Sâm hay dược liệu nào trên thế giới có đến nhiều hoạt chất lớn, nền tảng và hàng đầu như thế: Polyphenol (290,90 mg GAEs /g cao chiết), flavonoid (85,47 mg QEs / g cao chiết). Điều này lý giải thêm vì sao Beautysam là một giải pháp hiệu quả đặc biệt và duy nhất trên thị trường vừa mang lại sức khỏe tổng thể vừa tăng cường nội tiết tố, giúp Phụ nữ luôn căng tràn nhựa sống, đồng thời lại là một giải pháp hiệu quả giúp trong hỗ trợ điều trị các triệu chứng viêm nhiểm và các bệnh tự miễn khác...

Phù Tường Nguyên Dũng, Nguyễn Thị Kim Nga

Viện Dược liệu Vùng Cát biển iCHM

Tỉnh Bến Tre, Việt Nam

Ngày 25 tháng 10 năm 2022

Điểm nổi bật:

  • Tác dụng chính của BeautySÂM là hỗ trợ cải thiện nội tiết tố nữ, suy giảm chức năng buồng trứng do lão hóa sinh lý tuổi tiền mãn kinh và mãn kinh.
  • Tác dụng estrogen và kháng estrogen của flavonoid
  • Tiềm năng chủ vận và đối kháng của flavonoid tự nhiên đối với thụ thể estrogen ERα và thụ thể progesteron PR
  • Tác dụng của chiết xuất Bồ công anh đối với sự tăng sinh của tế bào granulosa buồng trứng và sự biểu hiện của các thụ thể hormone

Từ khóa: Launaea sarmentosasuy giảm nội tiết tố nữ estrogenphytoestrogensinh lý nữlão hóa sớmsuy buồng trứngung thư vúpolyphenolflavonoid, …

I. Giới thiệu

Beauty SÂM là sản phẩm thực phẩm Bảo vệ sức khỏe của Công ty Cổ phần Tập đoàn SSAVIGROUP. Công thức cấu tạo sản phẩm gồm có: Sa sâm Việt, Bồ công anh, Lô hội, Trinh nữ Hoàng cung, Mầm đậu nành. Tác dụng chính của BeautySÂM là hỗ trợ cải thiện nội tiết tố nữ. Thông qua đó có tác dụng trên các triệu chứng gây ra do buồng trứng bị suy giảm chức năng. Trong bài nghiên cứu này, Chúng tôi tập trung phân tích tác dụng của BeautySÂM trong phòng và hỗ trợ điều trị suy giảm chức năng buồng trứng do lão hóa sinh lý tuổi tiền mãn kinh và mãn kinh.

Lão hóa sinh lý buồng trứng được xác định bởi sự suy giảm chức năng buồng trứng theo tuổi ngày càng cao. Buồng trứng là cơ quan chuyên trách việc sản xuất các hormone estrogen và progesterone, đảm bảo chức năng sinh sản trong cơ thể của người phụ nữ. Khi buồng trứng bị suy giảm chức năng: lượng hormone estrogen và progesterone được sản xuất và bài tiết sẽ giảm. Các gen gây ảnh hưởng nội tiết tố đã biết (FSH, FSHR, LH, LHR, CYP17, CYP19) chủ yếu ảnh hưởng đến chức năng nang trứng, trong khi các gen khác ảnh hưởng đến tốc độ tuyển dụng ban đầu từ nhóm nang nguyên thủy vào nang trứng đang phát triển (BMP15, GDF9 và GPR3).

Thiếu hụt hormone steroid kéo dài có ảnh hưởng sâu rộng đến sức khỏe. Một độ tuổi sớm ở thời kỳ mãn kinh có liên quan đến tăng tỷ lệ tử vong và đột quỵ tim mạch [123], gãy xương [4] và nguy cơ ung thư đại trực tràng [5]. Chất lượng cuộc sống có thể giảm đáng kể, trong khi rối loạn chức năng tình dục và bệnh thần kinh có thể tăng lên sau này trong cuộc sống [678]. Mặc dù giảm nguy cơ phát triển ung thư vú, nguy cơ tử vong chung vẫn tăng và tuổi thọ giảm khi thời kỳ mãn kinh xảy ra sớm [91011].

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2019, tuổi thọ trung bình của phụ nữ Việt Nam là 76,3 tuổi [12].  Như vậy sau mãn kinh, phụ nữ còn sống thêm trung bình > 25 năm nữa. Vì vậy những rối loạn trong thời kỳ mãn kinh của phụ nữ đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý cũng như của các nhà chuyên môn.

Nền tảng của việc điều trị các rối loạn cơ năng, thực thể do lão hóa sinh lý buồng trứng gây ra là sử dụng các hormone sinh lý nữ. Kết quả điều trị rất tốt. Các triệu chứng bị gây ra do nồng độ nội tiết tố nữ trong máu giảm như suy giảm chức năng sinh sản, khô âm đạo, giảm ham muốn tình dục, rối loạn về tâm sinh lý, những cơn bốc hỏa, vã mồ hôi đêm, rối loạn giấc ngủ, … được cải thiện rất cơ bản. Nhưng vào lúc này, người phụ nữ lại phải đối diện với tác dụng không mong muốn nguy hiểm khác như bệnh huyết khối, đặc biệt là ung thư vú [12].

Phytoestrogen được quan tâm vì những lợi ích được báo cáo của chúng đối với nhiều bệnh ở người bao gồm ung thư, thoái hóa thần kinh, bệnh tim mạch và tiểu đường. Hơn nữa, còn có công cuộc tìm kiếm các hợp chất có hoạt động estrogen nhằm thay thế estrogen trong liệu pháp hormone thay thế thời kỳ quanh mãn kinh và mãn kinh. Trong thành phần hóa học của Sa sâm Việt – chủ vị của Beauty SÂM  – có chứa một hàm lượng lớn flavonoid (85,47 mg QEs/ g cao chiết) [25]. Flavonoid có cấu trúc hóa học tương tự estrogen nên được gọi là phytoestrogen và là họ phytoestrogen lớn nhất trong tự nhiên. Bồ công anh – thành phần quan trọng thứ hai của BeautySÂM  – là một cây thuốc nổi tiếng. Mục tiêu chính của bài nghiên cứu này là tập hợp và đánh giá một số kết quả nghiên cứu về tác dụng tăng cường sản xuất và bài tiết estrogen – là nội tiết tố nữ quan trọng nhất – của Flavonoid và Bồ công anh.

II. Kết quả nghiên cứu

1. Kết quả nghiên cứu về tác dụng estrogen và kháng estrogen của flavonoid [13]

1.1. Thể hiện hoạt động estrogen của flavonoid qua xét nghiệm nấm men tái tổ hợp (RYA).

Có 10 flavonoid được phân tích bằng xét nghiệm RYA: quercetin, kaempferol, galangin, luteolin, fisetin, chrysin, 3-hydroxyflavone, 5-hydroxyflavone, 7-hydroxyflavone và flavones.

Trong số đó, chỉ có kaempferol có hoạt động estrogen đáng kể qua việc gắn với ERα, nồng độ hiệu quả trung bình EC50 là 17,4 ± 3,2 µM và 6,74 ± 1,7 nM EEQ (Bảng 1). Các hợp chất còn lại: mức độ hoạt động estrogen không phát hiện được.

Bảng 1. Tác dụng estrogen của kaempferol (estradiol = EEQ)

https://journals.plos.org/plosone/article/figure/image?size=large&id=info:doi/10.1371/journal.pone.0074881.t001

Xét nghiệm nấm men tái tổ hợp (RYA): Các chất gây ảnh hưởng đến nội tiết tố nữ và phát huy tác dụng sinh lý của nó ngay từ nồng độ rất thấp. Với các chất có nồng độ thấp như vậy, các phương pháp định lượng thông thường rất khó được thực hiện. Xét nghiệm men tái tổ hợp (RYA) nhằm phát hiện hoạt động estrogen và chống estrogen của các chất này. Xét nghiệm này dựa trên ba chủng nấm men: Một chủng chứa một plasmid biểu hiện cho thụ thể hormone estrogen, chủng thứ hai biểu hiện thụ thể progesterone ở người, còn chủng thứ ba dựa trên chất kích hoạt men Gal4p, để phân tích bản chất của các hoạt động kháng estrogen.

Sự thay đổi hoạt tính-galactosidase ở các nồng độ kaempferol  (µM) khác nhau, được thử nghiệm trong 6 thí nghiệm độc lập.

Hình 1. Sự thay đổi hoạt tính-galactosidase của kaempferol.

hình nhỏ

Các hoạt động-galactosidase được tính là đơn vị huỳnh quang (FU). Giá trị là trung bình của sáu thí nghiệm độc lập; thanh chỉ phạm vi giá trị. a = Khác biệt đáng kể so với điều khiển âm, DMSO, FU = 182 ± 21. b = Khác biệt đáng kể so với kiểm soát dương tính, 17- estradiol, FU = 9910 ± 338 (ANOVA một chiều, thử nghiệm Tukey; p 0,05).

1.2. Thể hiện hoạt động estrogen của flavonoid được đo trên màn hình điện tử E-SCREEN

Thông số đánh giá của xét nghiệm này là tác dụng làm cho tế bào MCF-7/ BUS tăng sinh và phát triển.

E-SCREEN là một xét nghiệm đáng tin cậy để đánh giá nhanh chóng và dễ dàng hoạt động estrogen của các chất nghi ngờ có hoạt tính estrogen trên cơ sở làm tăng sinh các tế bào ung thư vú ở người ( MCF-7 ). Tế bào MCF-7 là dòng tế bào biểu hiện tác dụng qua thụ thể á – estrogen (ERα). [1] [2] [3] Ở người có 2 loại thụ thể estrogen: ERα và Erβ.

Các kết quả hoạt động estrogen được biểu thị bằng hiệu ứng tăng sinh (PE) trung bình ± SD (độ lệch chuẩn) của tế bào MCF-7. Hoạt tính kháng estrogen của chất thử nghiệm được đánh giá bằng hiệu ứng tăng sinh của tế bào MCF-7 khi có mặt chất đó so với hiệu ứng tăng sinh của tế bào MCF-7 khi có 17-â-estradiol  - estrogen quan trọng nhất - (RPE%).

RPE được sử dụng để xác định các chất chủ vận đầy đủ cho ER, giữa sự tăng sinh tương đối 80% và 100%. Chất chủ vận từng phần và yếu gây ra sự tăng sinh tế bào tương đối từ 25% đến 80%, hoặc 10% đến 25%, tương ứng.

Sự hợp lý cho việc sử dụng dòng tế bào này là:

  1. Nó là một dòng tế bào có nguồn gốc nội tiết và ER dương tính .
  2. Thể hiện aromatase và 5α-reductase như các tế bào steroid khác.
  3. Có hoạt tính aromatase nội sinh giúp chuyển đổi androgen thành estrogen.

Có thể gợi ra một phản ứng do estrogen gây ra liên quan đến cả con đường genomic và không genomic.

Trên màn hình điện tử, kết quả thể hiện là tác dụng tăng sinh PE % (Proliferation Effect - %) và độ mạnh của phản ứng của các chất được kiểm tra so với chất tham chiếu 17-β-estradiol (mặc định là = 100%): RPE  % (Relative Proliferation Effect - %). Số liệu cụ thể được thể hiện qua Bảng 2

Bảng 2: Tác dụng của các flavonoid trên sự phát triển của tế bào MCF-7 / BUS

  • Kaempferol: RPE = 85,3% - Thể hiện hoạt động chủ vận đầy đủ.
  • RPE của galangin, luteolin và fisetin lần lượt là 44,0%, 35,3% và 53,5% - Cho thấy thể hiện hoạt động chủ vận từng phần.
  • Quercetin, chrysin, 3-hydroxyflavone, 5-hydroxyflavone, 7-hydroxyflavone và flavone không gây ra hoạt động tăng sinh tế bào đáng kể.

1.3. Tác dụng kháng estrogen (antiestrogenic) của các flavonoid

Kết quả cho thấy: Trong số 10 flavonoid được thử nghiệm có quercetin, chrysin và 3-hydroxyflavone ức chế đáng kể sự phát triển, tăng sinh tế bào MCF-7 / BUS do 17-β-estradiol gây ra. Chưa phát hiện thấy tác dụng này ở các flavonoid còn lại. 

*  Tác dụng antiestrogenic của flavonoid.

C + = kiểm soát dương tính (17- β -estradiol), C− = kiểm soát âm tính (môi trường thí nghiệm không có steroid), MC = kiểm soát trung bình (10% FBS trong DMEM), SC = kiểm soát dung môi (0,01% DMSO, nồng độ cao nhất của dung môi sử dụng trong thử nghiệm). * Khác biệt đáng kể so với kiểm soát dương tính (ANOVA một chiều, thử nghiệm Dunnett; p 0,05). 3 thí nghiệm độc lập đã được thực hiện với flavonoid, Mỗi thí nghiệm lặp lại 3 lần.

2. Kết quả nghiên cứu về tiềm năng chủ vận và đối kháng của flavonoid tự nhiên đối với thụ thể estrogen ERα và thụ thể progesteron PR [14]

Để phát huy được các tác dụng sinh lý trên cơ thể, estrogen phải có “bước đi đầu tiên” là kết hợp với các thụ thể estrogen (ER). Ở người có 2 loại thụ thể estrogen: ERα và ERâ. ERα có ở các mô thần kinh, xương, tim mạch và sinh sản  [15161718]. Do các flavonoid có khung cấu trúc hóa học tương tự với cấu trúc của estrogen (E2) nên chúng cũng có thể liên kết với ER [1920]. và gây ra tác dụng tương tự như estrogen. Vì lý do này, các flavonoid cũng được gọi là các phytoestrogen. Tuy nhiên, do cấu trúc các flavonoid cũng không giống estrogen hoàn toàn nên flavonoid cũng lại có các tác dụng khác với estrogen. Và, cũng tùy thuộc cấu trúc cụ thể, các phytoestrogen này có tác dụng estrogen hoặc kháng estrogen.

10 flavonoid tự nhiên được đưa vào nghiên cứu: quercetin, hesperedin, naringin, genistein, luteolin, galangin, baicalein, epicatechin, myricetin, kaempferol.

Để kiểm tra tiềm năng phytoestrogen của các flavonoid trên, các tác giả đã nghiên cứu tác động của flavonoid đối với khả năng sống của các tế bào ung thư vú MCF-7; Xác định hoạt tính estrogen hoặc kháng estrogen của chúng bằng xét nghiệm Luciferase, MTT và Blot Western.

2.1. Xét nghiệm Luciferase

Con đường cổ điển của tín hiệu estrogen liên quan đến sự liên kết trực tiếp của ER với các chuỗi DNA cụ thể được gọi là các yếu tố phản ứng estrogen (ERE). Cấu trúc ERE được gắn luciferase thành 3XERE/ 3XERRE-luciferase và đã được sử dụng để phân tích tiềm năng estrogen/ kháng estrogen của flavonoid (thay cho việc sử dụng tế bào MCF-7. Flavonoid nào tác động được vào 3XERE/ 3XERRE-luciferase, tức là có hoạt tính estrogen, điểm đó sẽ phát sáng và sẽ đo được. Chất đối chứng dương là estrogen.

Kết quả: Trong số các flavonoid có genistein, luteolin, kaempferol có hoạt tính estrogen (Hình 3). Baicalein cũng có hoạt tính này nhưng rất yếu. Kết quả cụ thể được thể hiện trong Hình 3.

Hình 3. Ảnh hưởng của flavonoid đến biểu hiện gen truyền tin

hình5

Chất chứng âm là DMSO (0,05%), chất chứng dương là E(10 nM), các cột đại diện cho giá trị trung bình ± SD (Độ lệch chuẩn). n = 3. Dữ liệu được phân tích bởi ANOVA, theo sau là TuD's HSD (*** p < 0,001, * p < 0,05).

2.2. Xét nghiệm MTT

Phương pháp MTT được mô tả như sau: Tế bào ung thư MCF-7 được nuôi cấy. Tiếp theo từng flavonoid được pha loãng trong dung môi DMSO được cho vào (nồng độ cuối của DMSO trong môi trường nuôi cấy không vượt quá 0,05%).

Flavonoid này sẽ làm tăng, hoặc giảm, hoặc không có ảnh hưởng gì đến khả năng sống của MCF-7. MTT (3-(4,5-dimethyl-2- thiazolyl)-2,5-diphenyl-2H-tetrazolium bromide) được cho vào môi trường nuôi cấy với lý do là những tế bào MCF-7 sống sót sẽ chuyển hóa MTT thành formazan. Formazan sẽ hòa tan được bằng DMSO và có thể đo được. Như vậy, nếu lượng tế bào MCF-7 sống sót càng nhiều thì lượng formazan đo được sẽ càng cao. Tác dụng này được so với chất chứng âm là DMSO và chất chứng dương là E2.

Kết quả:

Genistein, luteolin, galangin, baicalein, epicatechin, myricetin và kaempferol làm tăng khả năng sống sót của các tế bào MCF-7 cho thấy tiềm năng estrogen của chúng (Hình 4). Quercetin, naringin và hesperidin không thấy có tác dụng này.

Các cột đại diện cho giá trị trung bình ± SD (Độ lệch chuẩn). n = 3. Dữ liệu được phân tích bởi ANOVA, theo sau là TuD's HSD (*** p < 0,001, * p < 0,05).

2.3. Phương pháp Western Blot

Western Blot là một kỹ thuật phân tích được sử dụng rộng rãi nhằm phát hiện các protein chuyên biệt trên các mẫu mô hay dịch chiết xuất mô.

Phương pháp này sử dụng điện di trên gel để phân tách các protein còn nguyên vẹn bằng cấu trúc 3D hay protein đã biến tính theo độ dài của mạch polypeptide.

Nguyên lý: Western Blot là kỹ thuật lai giữa protein với protein là kháng nguyên (Kháng nguyên – Kháng thể). Protein kháng nguyên được phát hiện qua phản ứng tạo màu hoặc phát huỳnh quang. Kỹ thuật này được áp dụng để xác định sự hoạt động của gene thông qua sự có mặt của protein trong mô hoặc để nhận dạng protein mục tiêu. Phát hiện bằng các đưa vào “chất thông báo”. Chất này thúc đẩy phản ứng phát quang và tạo màu.

Bằng kỹ thuật này, các tác giả xác định tác dụng estrogen và kháng estrogen của các flavonoid biểu hiện thông qua thụ thể progesterone (PR) [212223].

Kết quả: Genistein, epicatechin, kaempferol có hoạt tính estrogen. Quercetin, naringin và hesperidin có hoạt tính kháng estrogen. Myricetin, baicalein, luteolin, galangin không gây ra biểu hiện PR. 

3.  Kết quả nghiên cứu về tác dụng của chiết xuất Bồ công anh đối với sự tăng sinh của tế bào granulosa buồng trứng và sự biểu hiện của các thụ thể hormone [24]

3.1.  Thiết kế nghiên cứu

60 phụ nữ tuổi < 38 được ghi danh chia làm 2 nhóm dựa trên đáp ứng của buồng trứng của họ:

  • Phản ứng buồng trứng bình thường (NOR).
  • Phản ứng buồng trứng kém (POR): Nồng độ FSH huyết thanh cơ bản > 10 U/ L và số lượng nang trứng < 5.

Loại trừ những bệnh nhân được chẩn đoán vô sinh liên quan đến các tình trạng như hội chứng buồng trứng đa nang hoặc lạc nội mạc tử cung, có thể ảnh hưởng đến chất lượng của GC.

Các thông số bệnh nhân được tóm tắt trong Bảng 3: Các giá trị trung bình về tuổi và chỉ số khối cơ thể (BMI) khác biệt không đáng kể giữa 2 nhóm. Có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm về số lượng nang noãn và nồng độ FSH vào ngày thứ ba của chu kỳ, nồng độ estradiol trong huyết thanh vào ngày tiêm HCG và số lượng trứng thu được (P <0,001).

Bảng 3. So sánh các đặc điểm giữa nhóm NOR và nhóm POR

Thông số

NOR ( n = 30)

POR ( n = 30)

Khác biệt

P

Tuổi

31,73 ± 3,93

33,36 ± 3,68

1.659

0,02

BMI (kg / m 2 )

22,83 ± 2,03

23,49 ± 2,37

1.144

0,257

AFC

11,10 ± 2,69

4,43 ± 1,33

 

<0,01

bFSH (mU / ml)

6,35 ± 1,82

11,92 ± 5,17

5.552

<0,01

Trứng lấy

9,93 ± 2,32

3,43 ± 0,93

 

<0,01

Đỉnh estradiol (pg / ml)

2490,19 ± 550,53

1179,92 ± 294,55

 

< 0,01

Dữ liệu được thể hiện dưới dạng trung bình ± SD. BMI: Chỉ số khối cơ thể; AFC: Số lượng nang trứng; bFSH: Hormon kích thích nang cơ bản; NOR: Phản ứng buồng trứng bình thường (bFSH < 10 mU/ ml hoặc AFC = 5 -15); POR: Đáp ứng buồng trứng kém (bFSH > 10 mU/ ml hoặc AFC <5); SD: Độ lệch chuẩn.

3.2. Kết quả nghiên cứu [24]

a. Hình thái của các tế bào granulosa của nhóm phản ứng buồng trứng bình thường trong ống nghiệm

(a) Nhóm đối chứng (không có DE-T1); (b) 1% DE-T1; (c) 5% DE-T1; (d) 10% DE-T1. DE-T1: Chiết xuất Bồ công anh T-1.

Hình thái tế bào không đều với các tế bào là hình ngôi sao hoặc hình trụ. Các tế bào được kết nối với nhau bằng giả mạc kéo dài. Các hạt nhân to và tròn, tế bào chất đầy và có độ trong suốt cao. Các tế bào cho thấy có sự tăng trưởng cụm.

Đối với các GC có mật độ tế bào đồng đều, sau 24 giờ nuôi cấy, DE-T1 đã được thêm vào theo các nồng độ đã ấn định. Sau 48 giờ, mức độ phát triển (to ra) và tăng sinh của các GC trong nhóm được điều trị bằng DE-T1 cao hơn đáng kể so với các GC trong nhóm đối chứng 

b. Tác dụng của DE-T1 đối với khả năng sống và sự tăng sinh của tế bào granulosa người in vitro.

Các GC được nuôi cấy với các nồng độ DE-T1: 1.25%; 2.5% và 5% trong 48 giờ. Sau đó: khả năng sống của tế bào được kiểm tra bằng xét nghiệm CCK-8.

Nhóm đáp ứng bình thường NOR:

Kết quả cho thấy: khả năng sống của tế bào tăng dần theo sự tăng dần của nồng độ DE-T1. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm đối chứng: nhóm DE-T1: 1,25% (P = 0,003), 2,5% (P = 0,007) và 5% (P= 0,001). Các hoạt động tăng sinh trong các nhóm cũng cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng (P <0,01). Hình 4.

Hình 4. Những thay đổi trong các tế bào granulosa buồng trứng - nhóm phản ứng buồng trứng bình thường.

Một tệp bên ngoài chứa hình ảnh, hình minh họa, v.v ... Tên đối tượng là CMJ-131-1694-g002.jpg

Dữ liệu được hiển thị dưới dạng trung bình ± SD. SD: Độ lệch chuẩn. Nhóm đối chứng: không có DE-T1. * P <0,05, † P < 0,01. CCK-8: Bộ đếm tế bào-8; DE-T1: Chiết xuất Bồ công anh T-1.

Nhóm đáp ứng thấp POR:

Nồng độ DE-T1: 5%; Thời gian tăng dần: 1 - 4 ngày. Khả năng sống sót của tế bào được kiểm tra bằng xét nghiệm CCK-8 hàng ngày.

Kết quả cho thấy: nhóm chứng: các GC tăng sinh chậm theo thời gian. Sau đó, chúng dần già đi và khả năng sống của tế bào cũng giảm dần.

Hình 5. Những thay đổi trong các tế bào granulosa buồng trứng - nhóm buồng trứng phản ứng kém.

Một tệp bên ngoài chứa hình ảnh, hình minh họa, v.v ... Tên đối tượng là CMJ-131-1694-g003.jpg

Dữ liệu được hiển thị dưới dạng trung bình ± SD. SD: Độ lệch chuẩn. Nhóm chứng không có DE-T1. * P <0,05, † P <0,01. CCK-8: Bộ đếm tế bào-8; DE-T1: Chiết xuất Bồ công anh T-1;

Nhóm bổ sung DE-T1: sự lão hóa, sự chết tế bào, cũng như sự suy giảm khả năng tăng sinh của các GC đã bị trì hoãn đáng kể so với nhóm đối chứng. Sự khác biệt sau 1 ngày (P = 0,011); 2 ngày (P = 0,005) và 3 ngày (P = 0,002). Hình 8.

c. Tác dụng của DE-T1 đối với các biểu hiện mRNA của các receptor

Hormon kích thích nang trứng (FSHR), receptor hormon hoàng thể (LHR), receptor yếu tố tăng trưởng 1 giống insulin (IGF-1R) và CYP19A1 trong các tế bào granulose.

Nhóm buồng trứng phản ứng bình thường

Nhìn chung: Các biểu hiện mRNA của FSHR, LHR, IGF-1R và CYP19A1 của các GC sau khi bổ sung DE-T1 có xu hướng gia tăng so với nhóm đối chứng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết quả cụ thể được trình bày trong Bảng 4 và Hình 9a và 9b.

Bảng 4: Tác động của DE-T1 đến biểu hiện mRNA của các thụ thể hormone GC nhóm NOR

Nhóm thử nghiệm

Mức độ biểu hiện mRNA của R

Khác biệt so với nhóm đối chứng

DE-T1 1,25%

FSHR

P = 0,017

DE-T1 2,5%

FSHR

P = 0,009

 

IGF-1R

P = 0,003

 

CYP19A1

P = 0,001

DE-T1 5%

IGF-1R

P = 0,004

 

CYP19A1

P = 0,003

Nhóm đáp ứng buồng trứng kém

Bảng 5: Tác động của DE-T1 đến biểu hiện mRNA của các thụ thể hormone GC nhóm POR

Nhóm thử nghiệm

Mức độ biểu hiện mRNA của R

Khác biệt so với nhóm đối chứng

DE-T1 1,25%

CYP19A1

P = 0,011

DE-T1 2,5%

FSHR

P = 0,001

 

IGF-1R

P = 0,001

 

CYP19A1

P = 0,001

DE-T1 5%

LHR

P= 0,011

 

IGF-1R

P = 0,003

Nhìn chung: Các biểu hiện mRNA của FSHR, LHR, IGF-1R và CYP19A1 của các GC sau khi bổ sung DE-T1 đều cao hơn so với nhóm đối chứng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết quả cụ thể được trình bày trong Bảng 5 và Hình 9c và 9d

Hình 6: Kết quả về tác động của DE-T1 đến biểu hiện mRNA của các thụ thể hormone

Một tệp bên ngoài chứa hình ảnh, hình minh họa, v.v ... Tên đối tượng là CMJ-131-1694-g004.jpg

Ảnh hưởng của DE-T1 đối với mức độ biểu hiện mRNA của các GC nhóm NOR: FSHR và LHR (a); và IGF-1R, CYP19A1 (aromatase) (b); Nhóm POR: FSHR, LHR và CYP19A1 (Aromatase) (c); IGF-1R (d).

Các nồng độ DE-T1 được trình bày dưới dạng %.

Nồng độ mRNA trong các GC được đo bằng cách sử dụng RT-PCR của RNA chiết xuất và được chuẩn hóa chống lại-actin.  Dữ liệu được hiển thị dưới dạng trung bình ± SD. SD: Độ lệch chuẩn. * P <0,05, † P <0,01. FSHR: receptor của hormon kích thích nang trứng; LHR: receptor của hormone luteotropic; GC: tế bào Granulosa; NOR: Phản ứng buồng trứng bình thường; POR: Đáp ứng buồng trứng kém; RT-PCR: Phản ứng chuỗi polymerase thời gian thực.

d. Sự khác biệt giữa đáp ứng của nhóm buồng trứng bình thường và nhóm buồng trứng kém ở nhóm DE-T1 nồng độ 2,5%.

Với các nồng độ DE-T1 khác nhau, có sự khác biệt trong đáp ứng biểu hiện gen của các GC giữa nhóm NOR và nhóm POR. Có xu hướng nhóm POR đáp ứng tốt hơn. Riêng ở nhóm liều DE-T1 2,5%, đáp ứng của nhóm POR cao hơn hẳn so với nhóm NOR.

Bảng 6: Đáp ứng biểu hiện gen của nhóm POR và NOR với DE-T1 nồng độ 2,5%.

Nhóm POR

Nhóm NOR

Ý nghĩa thống kê

LHR tăng 4,78 ± 0,50 lần

Tăng 3,58 ± 0,12 lần

P < 0,05

IGF-1R tăng 24,97 ± 4,02

Tăng 3,29 ± 0,51

P < 0,01

CYP19A1 tăng 1,49 ± 0,12

Tăng 1,06 ± 0,09

P < 0,01

Hình 7. Đáp ứng biểu hiện gen của nhóm buồng trứng bình thường và nhóm buồng trứng kém ở nhóm liều DE-T1 2,5%

 

Nồng độ DE-T1 được trình bày dưới dạng %. Dữ liệu được hiển thị dưới dạng trung bình ± SD. SD: Độ lệch chuẩn. * P <0,05, † P <0,01. DE-T1: Chiết xuất Bồ công anh T-1; FSHR: thụ thể (receptor) hormone kích thích nang trứng; LHR: thụ thể hormone luteotropic; NOR: Phản ứng buồng trứng bình thường; POR: Đáp ứng buồng trứng kém; qRT-PCR: Định lượng phản ứng chuỗi polymerase theo thời gian thực.

(a) FSHR, (b) LHR, (c) CYP19A1 (aromatase) và (d) IGF-1R. Mức mRNA giữa các tế bào granulosa buồng trứng của các nhóm NOR và POR được đo bằng cách sử dụng qRT-PCR của RNA chiết xuất và được chuẩn hóa chống lại-actin.

e. Tác dụng của DE-T1 đối với sự bài tiết progesterone của tế bào granulosa

Đối với nhóm NOR: Mức sản xuất, bài tiết progesterone tăng theo nồng độ DE-T1 tăng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê đạt được ở nhóm DE-T1 nồng độ 5% (P = 0,021).

Đối với nhóm POR: Mức sản xuất, bài tiết progesterone tăng có ý nghĩa thống kê đạt được ở nhóm DE-T1 nồng độ 2,5% (P = 0,027) và 5% (P = 0,002)  

f. Tác dụng của DE-T1 đối với sự bài tiết estradiol của tế bào granulose

Đối với nhóm NOR: Mức sản xuất, bài tiết estradiol tăng theo nồng độ DE-T1 tăng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê đạt được ở nhóm DE-T1 nồng độ 2,5% (P = 0,016) và 5% (P = 0,003).

Đối với nhóm POR: Mức sản xuất, bài tiết estradiol tăng có ý nghĩa thống kê đạt được ở nhóm DE-T1 nồng độ 2,5% (P = 0,004) và 5% (P = 0,002). 

Hình 8. Đáp ứng bài tiết progesterone và estradiol của các tế bào granulose đối với DE-T1.

Một tệp bên ngoài chứa hình ảnh, hình minh họa, v.v ... Tên đối tượng là CMJ-131-1694-g006.jpg

Mức đáp ứng bài tiết progesterone nhóm NOR (a) và nhóm POR (b).  Mức estradiol nhóm NOR (c) và nhóm POR (d).

Dữ liệu được hiển thị dưới dạng trung bình ± SD. SD: Độ lệch chuẩn. * P <0,05; † P <0,01. DE-T1: Chiết xuất Bồ công anh T-1; NOR: Phản ứng buồng trứng bình thường; POR: Đáp ứng buồng trứng kém; ELISA: xét nghiệm miễn dịch liên quan đến enzyme.

III. Thảo luận

Sự thỏa mãn tình dục đóng một phần quan trọng đối với sức khỏe thể chất và tinh thần của phụ nữ. Các vấn đề về ham muốn tình dục thấp đáng được quan tâm và điều trị như bất kỳ bệnh lý thể chất hoặc tinh thần nào khác. Ở Việt Nam, cụm từ “yếu sinh lý nữ” thường được sử dụng để nói về vấn đề tế nhị này.

Nguyên nhân dẫn đến yếu sinh lý nữ có nhiều, nhưng trong bài nghiên cứu này, chúng tôi tập trung vào nguyên nhân do suy giảm chức năng buồng trứng do tuổi (thời kỳ quanh mãn kinh và mãn kinh).

Các phương pháp điều trị suy giảm chức năng buồng trứng bao gồm: Liệu pháp nội tiết và Liệu pháp dùng chất không phải nội tiết: Phytoestrogen.

Đối với liệu pháp nội tiết: Nguyên nhân chính của các rối loạn là do lượng estrogen được sản xuất và bài tiết giảm. Vì vậy, nền tảng chính của điều trị là dùng estrogen đơn độc hoặc kết hợp hay với progesteron để bù vào nguồn nội tiết tố nội sinh bị thiếu hụt. Tuy nhiên do liệu pháp này có nhiều tác dụng không mong muốn nghiêm trọng: tăng cân, đau đầu, huyết khối tĩnh mạch sâu, đột quỵ, thiếu máu cơ tim cục bộ, đặc biệt là ung thư vú, cho nên Phytoestrogen trở thành đích tìm đến của cả các nhà quản lý, chuyên môn y tế cũng như người tiêu dùng.

1. Về tác dụng nội tiết tố (hoạt tính estrogen/ kháng estrogen) của flavonoid.

Kết quả nghiên cứu [13] cho thấy flavonoid có các tác dụng:

  1. Kết quả xét nghiệm nấm men tái tổ hợp (RYA) cho thấy: Flavonoid kaempferol thể hiện có hoạt động estrogen.
  2. Kết quả xét nghiệm màn hình điện tử E-SCREEN cho thấy:
  • Kaempferol: RPE = 85,3% - Thể hiện hoạt động chủ vận đầy đủ.
  • RPE của galangin, luteolin và fisetin lần lượt là 44,0%, 35,3% và 53,5% - Cho thấy thể hiện hoạt động chủ vận từng phần.
  • Quercetin, chrysin, 3-hydroxyflavone, ức chế đáng kể sự phát triển, tăng sinh tế bào MCF-7 / BUS do 17-β-estradiol gây ra. Đây là tác dụng kháng estrogen.
  • 5-hydroxyflavone, 7-hydroxyflavone và flavone không gây ra hoạt động nào đáng kể.

2. Xác định, phân tích tiềm năng chủ vận và đối kháng của flavonoid tự nhiên đối với thụ thể estrogen (ERα)

Kết quả nghiên cứu [14] cho thấy flavonoid có các tác dụng:

Theo phương pháp xét nghiệm Luciferase: Genistein, luteolin, kaempferol có hoạt tính estrogen. Baicalein cũng có hoạt tính này nhưng rất yếu.

Theo phương pháp xét nghiệm MTT: Genistein, luteolin, galangin, baicalein, epicatechin, myricetin và kaempferol làm tăng khả năng sống sót của các tế bào MCF-7 cho thấy tiềm năng estrogen của chúng. Quercetin, naringin và hesperidin không thấy có tác dụng này.

Theo phương pháp xét nghiệm Western Blot: Genistein, epicatechin, kaempferol có hoạt tính estrogen. Quercetin, naringin và hesperidin có hoạt tính kháng estrogen. Myricetin, baicalein, luteolin, galangin không gây ra biểu hiện PR.

Tổng hợp cả 2 nghiên cứu:

Có 16 flavonoid được đưa vào nghiên cứu:

STT

Nghiên cứu

Nghiên cứu

Tăng khả năng sống của MCF-7

Có hoạt tính estrogen

Có hoạt tính kháng estrogen

1

Quercetin

Quercetin

N

 

++/++

2

Kaempferol

Kaempferol

++/ ++

+++ /++/++

 

3

Galangin

Galangin

++

+

 

4

Luteolin

Luteolin

++

+ /++

 

5

Fisetin

 

 

++

 

6

Chrysin

 

 

 

++

7

3-hydroxy

flavone

 

 

 

++

8

5-hydroxy

flavone

 

 

 

NS

9

7-hydroxy

flavone

 

 

 

NS

10

Flavones

 

 

 

NS

11

 

Hesperidin

N

 

++

12

 

Naringin

N

 

++

13

 

Genistein

++/ ++

/++

 

14

 

Baicalein

++

+

 

15

 

Epicatechin

++/ ++

++

 

16

 

Myricetin

++

++

 

Ghi chú: ++/ ++ tức là có 2 phương pháp cùng cho chung một kết quả.

Mặc dù được thực hiện theo nhiều phương pháp, xét nghiệm khác nhau, nhưng kết quả chung rất đồng nhất. Các kết quả này cho thấy, 100% các flavonoid có tác dụng phytoestrogen. Do cấu trúc khác nhau nên độ mạnh tác dụng khác nhau. Có flavonoid tác dụng như estrogen, có flavonoid tác dụng như progesterone.

Như vậy, so với danh sách các phytoestrogen trước đây, nhờ các nghiên cứu hiện đại, danh sách các phytoestrogen hiện nay được mở rộng ra rất nhiều. Là các hoạt chất trực tiếp có hoạt tính hormone, flavonoid đóng vai trò quan trọng trong cơ chế tác dụng nội tiết đầu tiên: Bù đắp các thiếu hụt estrogen ở người.

3. Tác dụng làm tăng cường sản xuất, bài tiết hormon trên cơ thể người qua kết quả của nghiên cứu [24].

Việc sử dụng chiết xuất Bồ công anh nhằm theo dõi sự tăng sinh của tế bào Granulosa buồng trứng và sự biểu hiện của các thụ thể hormon chính là một biện pháp sử dụng Liệu pháp dùng Phytoestrogen.

GC (Granulose cells) là các tế bào chức năng chính của buồng trứng. Sự tăng sinh và biệt hóa của các tế bào này được coi là dấu hiệu của sự phát triển nang trứng. Nghiên cứu được thực hiện bởi Nakahara và cộng sự [26] cho thấy so với buồng trứng chức năng bình thường, ở buồng trứng bị suy giảm GC tăng sinh chậm hơn và tốc độ apoptosis nhanh hơn. Có một mối tương quan dương giữa con đường truyền tín hiệu FSHR và gen điều hòa FSH PPAP / CYP19A1 ở buồng trứng chức năng bình thường, trong khi ở những bệnh nhân mắc POR, mối tương quan đó bị xáo trộn, thậm chí bị chặn [27].

Nghiên cứu này cho thấy, trong phạm vi nồng độ nhất định, DE-T1 có thể tăng cường hoạt động tăng sinh, ức chế sự giảm hoạt động tăng sinh của các GC được nuôi cấy trong ống nghiệm. Các tác giả đã suy đoán rằng DE-T1 có thể có các hiệu ứng giống như FSH và thúc đẩy sự tăng sinh của các GC.

Tóm lại, người ta đã suy đoán rằng DE-T1 có thể thúc đẩy sự tăng sinh của các GC, do đó làm tăng biểu hiện mRNA của FSHR và IGF-1R trên bề mặt GC và tăng cường độ nhạy cảm của các GC đối với các kích thích tố rụng trứng và các hoocmon kích thích rụng trứng. Người ta cũng cho rằng DE-T1 có thể điều chỉnh quá trình phiên mã của gen đích P450 aromatase, do đó thúc đẩy buồng trứng sản xuất nhiều estrogen hơn, góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển nang trứng. DE-T1 có thể được sử dụng để hỗ trợ điều trị rụng trứng lâm sàng và giảm liều thuốc gây rụng trứng, đặc biệt là cải thiện chức năng buồng trứng của phụ nữ có phản ứng bất lợi với thuốc gây rụng trứng. Ngoài ra, DE-T1 có thể được sử dụng để đạt được số lượng noãn bào lý tưởng và cải thiện kết quả lâm sàng của IVF.

Nồng độ của các hormone estrogen và progesterone trong môi trường nuôi cấy GC đã được đo trong thí nghiệm và người ta thấy rằng khối lượng bài tiết của estrogen và progesterone trong các GC cao hơn đáng kể ở nhóm DE-T1 so với nhóm đối chứng. Ở cùng một hàm lượng và số lượng chiết xuất được sử dụng, sự tiết hormon ở nhóm NOR nhiều hơn ở nhóm POR. Estrogen và progesterone là những hormone sinh sản nữ quan trọng; do đó, người ta đã suy đoán rằng DE-T1 có thể duy trì sự phát triển và trưởng thành hơn nữa của noãn bào trong nang trứng bằng cách thúc đẩy các GC tổng hợp nhiều hormone steroid hơn.

Do thí nghiệm được thực hiện trên chính những tế bào nuôi cấy của buồng trứng người, vì vậy xác minh được giá trị của dược liệu là tăng cường sản xuất, bài tiết hormon trên cơ thể người.

4. Về tác dụng tăng cường sản xuất, bài tiết nội tiết tố thông qua tác dụng chống oxy hóa, hạn chế lão hóa buồng trứng của polyphenol và flavonoid.

Từ nhiều năm nay, chất gây oxy hóa và gốc tự do vẫn được coi là nguyên nhân chính của sự già hóa các tế bào cơ thể nói chung và tế bào granulose buồng trứng nói riêng. Sự tồn tại của chất gây oxy hóa và gốc tự do trong cơ thể kéo dài qua năm tháng, cùng với những áp lực cuộc sống đè nặng lên vai người phụ nữ dẫn đến tình trạng stress oxy hóa. Đây là tình trạng mất cân bằng giữa sự hình thành các gốc tự do có oxy (Reactive Oxygen Species - ROS) và cơ chế kháng oxy hóa của cơ thể. Ngoài việc là nguyên nhân của nhiều bệnh lý ở người như xơ vữa động mạch, ung thư, tiểu đường, tổn thương gan, thấp khớp, … stress oxy hóa còn được xem là có liên quan đến hiếm muộn, bệnh lý phụ khoa, bệnh lý trong thai kỳ.

Stress oxy hóa trong sinh lý sinh sản tự nhiên [28].

Quá trình phát triển, chọn lọc của nang noãn và trưởng thành của noãn ở buồng trứng hàng tháng có sự tác động của ROS và các antioxidants, trong đó, ROS kích thích sự chọn lọc nang noãn, còn antioxidants có tác dụng ức chế. Tác động của ROS và antioxidants lên buồng trứng khá phức tạp. Tăng ROS có thể làm giảm máu nuôi buồng trứng và dẫn đến tổn thương mô buồng trứng.

ROS đã được chứng minh là nguyên nhân lớn nhất thúc đẩy sự lão hóa của buồng trứng. Buồng trứng trải qua các tác động lão hóa nghiêm trọng hơn nhiều so với bất kỳ mô nào khác của cơ thể phụ nữ. Những thay đổi này liên quan đến tuổi ở cấp độ tế bào thông qua việc phá hủy tất cả các loại phân tử hữu cơ bao gồm protein, lipid, carbohydrate và DNA [2930]. Ở phụ nữ lớn tuổi, số lượng nang noãn và chất lượng noãn giảm nhanh. Các nghiên cứu mô tả trên y văn cho thấy stress oxy hóa thường tăng kèm với sự gia tăng của mỡ trong máu và tích tụ mỡ trong cơ thể. Các yếu tố này góp phần quan trọng làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch ở phụ nữ mãn kinh. Như vậy, hậu quả của ROS phải được tính theo cách thức tổng thể sinh vật bị ảnh hưởng bởi sự căng thẳng lặp đi lặp lại do tổn thương oxy hóa. Bất luận đánh giá theo phương diện nào, stress oxy hóa vẫn là cơ chế tổng thể quan trọng nhất cho sự lão hóa tế bào.

Song song với stress oxy hóa, viêm mãn tính cũng được coi là yếu tố góp phần chính gây ra lão hóa tế bào. Nitric oxide synthase cảm ứng (iNOS) - một loại enzyme quan trọng tạo ra ROS - iNOS được sản xuất như một phần của phản ứng viêm thông thường với sự hiện diện của endotoxin hoặc cytokine vi khuẩn làm cho nặng thêm [31]. Việc sản xuất iNOS và sự gia tăng độc tố tiếp theo của NO, một loại ROS mạnh mẽ, dẫn đến thiệt hại oxy hóa tích tụ theo tuổi tác. Do cơ chế trên, viêm mãn tính có liên quan đến nhiều bệnh như bệnh tim mạch, ung thư, rối loạn chức năng tự miễn và rối loạn thoái hóa thần kinh [30323334]. Các bệnh này có bản chất lão hóa, thoái hóa.

Một trạng thái nội tại khác liên quan đến tuổi quan sát thấy ở nhiều sinh vật là sự tích tụ chất độc trong các tế bào và cơ quan [35, 36]. Nguồn gốc của các chất độc rất khác nhau và tạo thành một yếu tố quan trọng trong nguyên nhân của một số bệnh liên quan đến tuổi. Chất độc bị nhiễm từ môi trường cũng như hóa chất tích tụ nhiều năm trong cơ thể ảnh hưởng rất lớn đến hệ thống nội tiết của người. Với nhiều chức năng của hormone, những ảnh hưởng này nhiều khi đủ lớn để gây ra thiếu hụt sinh sản [3738].

Như chúng tôi đã phân tích ở trên, đối với tác dụng nội tiết, flavonoid thuộc một nhóm riêng là phytoestrogen. Tuy nhiên, về phương diện cấu trúc hóa học, flavonoid cũng là polyphenol và có đầy đủ đặc điểm tác dụng của polyphenol. Từ nhiều năm nay, các đặc tính chống oxy hóa trực tiếp và gián tiếp của polyphenol vẫn được coi là cơ chế chính chống lại sự già hóa của các tế bào cơ thể nói chung và tế bào granulose buồng trứng nói riêng.

Polyphenol, flavonoid có tác dụng rất hiệu quả trong việc hạn chế lão hóa buồng trứng qua cơ chế chống ROS.

Việc sản xuất quá mức ROS có thể thúc đẩy tổn thương mô do làm khởi phát quá trình viêm [3940414243]; Do đó, các hoạt động chống oxy hóa cổ điển của polyphenol chắc chắn góp phần vào vai trò chống viêm của chúng bằng cách làm gián đoạn quá trình viêm do ROS. 

Polyphenol được biết đến với các hoạt động chống oxy hóa; Chúng ức chế nhiều enzyme chịu trách nhiệm tạo ra ROS [44]; tạo phức với các ion kim loại như Fe 2+ , Cu 2+ và các gốc tự do, trung hòa gốc tự do [45]

Ngoài ra, polyphenol có thể làm giảm tổng hợp ATP của ty thể bằng cách ngăn chặn chuỗi hô hấp của ty thể và ATPase, ức chế xanthine oxyase, Nhờ đó giảm sản xuất ROS. 

Polyphenol có thể hạn chế biểu hiện gen iNOS do LPS gây ra trong các đại thực bào nuôi cấy, làm giảm tác hại oxy hóa [46]; Cuối cùng, polyphenol điều hòa các enzyme chống oxy hóa nội sinh  như superoxide effutase (SOD), catalase và glutathione (GSH) peroxidase (Px) dẫn đến giải độc ROS [474950]

Cơ chế tác dụng chống oxy hóa, trung hòa ROS của polyphenol:

Polyphenol là những phân tử ổn định đủ để nhận hoặc nhường electron cho các gốc tự do và trung hòa chúng, do dó làm giảm hoặc mất khả năng gây hại tới tế bào của ROS [48]. Hợp chất này hoạt động theo các con đường sau [5152]:

(1) Tạo phức làm mất khả năng xúc tác của các kim loại tham gia enzyme vận chuyển.

(2) Làm gián đoạn các phản ứng lan truyền phát sinh gốc tự do.

(3) Làm giảm nồng độ các gốc tự do hoạt động (trung hòa gốc tự do).

(4) Thu dọn các gốc tự do tham gia khơi mào phản ứng (quét gốc tự do, thu nhặt gốc tự do).

Flavonoid có bản chất hoá học là những polyphenol. Các flavonoid có khả năng chống oxy hóa cao do đặc điểm cấu tạo hoá học của chúng. Các nhóm hydroxyl phenolic, nhóm carbonyl, vòng thơm benzen có khả năng phản ứng rất lớn, chúng triệt tiêu các gốc tự do sinh ra trong quá trình bệnh lý của cơ thể và tạo nên những gốc tự do mới bền vững hơn, không tham gia vào dây chuyền phản ứng gốc [5354].

Cơ chế tác dụng chống viêm của polyphenol:

Polyphenol thực hiện tác dụng chống viêm bằng các cơ chế khác nhau: nhặt rác triệt để, thải sắt, ức chế NOX, điều hòa chuỗi hô hấp của ty thể, ức chế một số enzyme liên quan đến sản xuất ROS, điều hòa các enzyme chống oxy hóa nội sinh…

(1) Tác dụng điều hòa miễn dịch: một số polyphenol tác động đến quần thể tế bào miễn dịch, điều chế sản xuất cytokine và biểu hiện gen gây viêm [55, 56].

(2) Tác động đến hoạt động của đại thực bào: Đại thực bào được biết đến là một nhân tố quan trọng trong phản ứng viêm. Chúng khởi động viêm bằng cách tiết ra các chất trung gian gây viêm và các cytokine như IL-6 và TNF-α [57]. Polyphenol ức chế đại thực bào bằng cách ức chế cyclooxygenase-2 (COX-2), nitric oxide synthase cảm ứng (iNOS), do đó chúng làm giảm sản xuất TNF-a, interleukine-1-beta (IL-1-) [58].

(3) Polyphenol chống viêm và điều hòa các đường dẫn tín hiệu khác nhau:

  • Đường dẫn tín hiệu NFκ B
  • Đường báo hiệu MAPK
  • Qua trung gian axit Arachidonic.

Axit Arachidonic (AA) được giải phóng bởi phospholipid màng khi thủy phân phospholipase A2 (PLA2). Con đường này liên quan đến hàng loạt trung gian tiền viêm như: Cyclooxygenase (COX) hoặc lipoxygenase (LOX), prostaglandin (PGs), thromboxan A2 (TXA2), axit hydroxyeicosatetraenoic và leukotrienes (LT) [59]. Trong số các “thành viên gia đình COX”, COX-2 chịu trách nhiệm sản xuất một lượng lớn các loại tiền chất quan trọng do được kích hoạt bởi lipopolysacarit và các cytokine tiền viêm [60]. Việc làm giảm giải phóng axit arachidonic, prostaglandin và leukotrien của polyphenol thông qua việc ức chế hoạt động của các enzyme tế bào như PLA2, COX và LOX được coi là một trong những cơ chế chống viêm quan trọng nhất [6162636465].

(4)  Cuối cùng, một số polyphenol có sự tương đồng về cấu trúc và chức năng với các thuốc chống viêm cụ thể. Hợp chất phenolic, oleocanthal có đặc tính chống viêm tự nhiên và thể hiện sự tương đồng về cấu trúc với ibuprofen (một loại thuốc chống viêm nổi tiếng). Oleocanthal, giống như ibuprofen, ức chế các hoạt động COX-1 và COX-2 theo cách phụ thuộc vào liều [66].

IV. Kết luận

Không chỉ riêng nam giới, ở phụ nữ cũng xuất hiện tình trạng “yếu sinh lý”. Theo nghiên cứu, có đến 80% phụ nữ không còn hứng thú quan hệ giới sau khi sinh con hoặc ngoài 35 tuổi. Tình trạng nữ giới bị yếu sinh lý ngày càng xuất hiện phổ biến, gây ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của cuộc sống lứa đôi. Tình trạng mãn dục nữ cũng ngày càng tăng do tuổi thọ chung ngày càng được kéo dài. Yêu cầu về chất lượng của cuộc sống ngày càng cao cũng khiến nhu cầu sử dụng sản phẩm tăng cường sức khỏe giới ngày càng nhiều. Trong điều trị, việc dùng các sản phẩm nội tiết tổng hợp có tác dụng tăng cường chức năng sinh sản rất tốt, nhưng rất nhiều tác dụng không mong muốn xảy ra. Việc nghiên cứu đưa các sản phẩm tự nhiên an toàn có khả năng làm tăng sức khỏe giới là rất cần thiết.

Bài nghiên cứu đã tập trung phân tích sâu tác dụng làm tăng cường nội tiết tố nữ và tác dụng kháng viêm của BEAUTY SÂM. Đây là tác dụng quan trọng nhất của một sản phẩm “hormone”. Với hàm lượng hoạt chất đạt được rất cao trong Sa sâm Việt: polyphenol (290,90 mg GAEs /g cao chiết), flavonoid (85,47 mg QEs / g cao chiết) [25], cùng với những tác dụng xuất sắc của Bồ công anh, Lô hội, Trinh nữ hoàng cung, Mầm đậu nành, tạo nên viên uống BEAUTY SÂM  tác dụng hiệu quả dành cho liệu pháp hormone thay thế và kháng viêm đặc biệt dành cho phụ nữ.

Trên thực tế, đề tài cấp tỉnh của Công ty CP tập đoàn Sa sâm Việt về nghiên cứu ứng dụng, sản xuất sản phẩm bảo vệ sức khỏe BEAUTY SÂM đã được Hội đồng Khoa học đánh giá cao, được công nhận là sản phẩm khoa học, được Cục An toàn Vệ sinh Thực phẩm cấp giấy chứng nhận công bố tiêu chuẩn chất lượng. Thời gian qua, sản phẩm đã ra thị trường, đã được cộng đồng người tiêu dùng rất quan tâm bởi tính hiệu quả của nó. Tuy nhiên, cần có những nghiên cứu sâu hơn để được đăng ký thành thuốc, được chỉ định trong điều trị từ đó gióp phần lớn hơn trong điều trị các chứng rối loạn, thiếu hụt nội tiết tố cũng như yếu sinh lý của nữ giới.

Tham khảo và mua sản phẩm Beautysam tại đây:

Website: https://ssavimart.com/ 

Điện thoại liên hệ: 0889 787878

 

Icon-Zalo Zalo Icon-Messager Messenger Icon-Youtube Youtube backtotop Lên đầu trang